Bài viết mớiKIẾN THỨC

Phương Pháp Wyckoff từ A đến Z

Khái niệm và cách áp dụng phương pháp Wyckoff vào giao dịch trên thị trường tài chính

Phương pháp Wyckoff là một phương pháp được rất nhiều nhà đầu tư trên thế giới sử dụng và được chứng minh hiệu quả trong suốt gần 100 năm qua trên thị trường tài chính thế giới. Nếu bạn là người mới tìm hiểu về thị trường tài chính và chưa biết bắt đầu học hỏi từ đâu? Hoặc nếu bạn là người đã có kinh nghiệm tham gia trên các thị trường rồi nhưng đang gặp những vấn đề về thua lỗ hay cháy tài khoản. Thì phương pháp này sẽ giúp bạn có cái nhìn tổng thể về quy luật cũng như cách thức di chuyển của thị trường thông qua những giai đoạn đặc trưng của nó.

Để hiểu chuyên sâu hơn về cách giao dịch với phương pháp Wyckoff, bạn có thể tham khảo khóa học đầy đủ về Wyckoff sau đây.

» Khóa học Wyckoff từ A đến Z

Phương pháp Wyckoff phân tích dựa trên nền tảng của giá và khối lượng với 3 Quy luật “luôn đúng” trên thị trường chứng khoán được tác giả Rubén Villahermosa Chaves chia sẻ thông qua quyển sách Làm giàu từ chứng khoán bằng phương pháp VSA chính gốc: Nghiên cứu chuyên sâu về cách giao dịch của Wyckoff giúp nhà đầu tư hiểu được quy luật vận động của thị trường và vận dụng kỹ thuật Giá và Khối lượng để nhận diện được dòng tiền thông minh.

1. Phương pháp Wyckoff

Phương pháp Wyckoff là một loạt các quy luật, nguyên tắc và kỹ thuật giao dịch được thiết kế nhằm giúp trader đánh giá tổng thể thị trường, tìm ra những cổ phiếu có lợi nhuận tiềm năng và xác định mục tiêu giao dịch.

Cha đẻ của phương pháp Wyckoff là Richard Wyckoff (1873 – 1934) một nhà giao dịch chứng khoán cực kỳ thành công với phân tích kỹ thuật thông qua việc đọc biểu đồ, đọc dải băng giá để thấu hiểu hành vi thị trường.

Phương pháp Wyckoff hiện đại
Phương pháp Wyckoff hiện đại

Sau đó, Phương pháp Wyckoff được nâng cấp lên mức độ tốt hơn bởi một nhà giao dịch có hơn 40 năm kinh nghiệm là ông David H. Weis. Ông lấy Phương pháp Price Action làm cốt lõi của Phương pháp đầu tư Wyckoff, gồm những quy luật – nguyên tắc – kỹ thuật giao dịch:

  • 3 quy luật cơ bản của phương pháp Wyckoff
  • Chu kỳ giá Wyckoff (Wyckoff Price Cycle)
  • Sơ đồ Wyckoff
  • Khái niệm “Composite man”
  • 5 bước tiếp cận thị trường

Mặc dù phương pháp Wyckoff ban đầu được ứng dụng vào cổ phiếu, nhưng ngày nay, phương pháp này vẫn được sử dụng trên các loại thị trường tài chính khác nhau như tiền tệ, hàng hóa, trái phiếu và các thị trường tài chính trực tuyến như forex hay tiền điện tử. Cho đến tận bây giờ, phương pháp Wyckoff vẫn đang là một phần quan trọng trong chương trình đào tạo sau đại học của Golden Gate University ở San Francisco, Mỹ và được rất nhiều nhà đầu tư vận dụng thành công vào các giao dịch hằng ngày của mình trên thị trường.

Phương pháp này tập trung vào tìm kiếm các dấu hiệu xác nhận sự tham gia của Smart Money dựa trên thông tin về giá đóng cửa, biên độ giá và khối lượng (tên gọi khác là VSA). Sau khi xác định được các dấu hiệu mà smart money để lại, ông tiến hành giao dịch hài hòa với Smart Money chứ không giao dịch ngược lại với họ.

Ông không quan tâm đến phân tích cơ bản bởi vì theo Ông thông tin về lợi nhuận doanh nghiệp và các thông tin cơ bản khác thực sự là rất khó để tiếp cận và không chính xác nếu sử dụng để phân tích. Hơn nữa, các thông tin này thường đã phản ánh vào giá khi nó đã được công khai cho công chúng.

Sử dụng phương pháp này bạn có thể giao dịch đầu tư bằng cách tận dụng các dấu hiệu của Smart Money và giao dịch hài hòa với họ thay vì làm ngược lại họ. Để đạt được đến một trình độ nhất định khi sử dụng phương pháp này, đòi hỏi bạn phải thực hành rất nhiều nhưng nó xứng đáng với sự nỗ lực của bạn.

Trong phương pháp của Wyckoff có hai quy tắc quan trọng.

Quy tắc số 1

Đừng mong chờ thị trường vận động theo cùng một cách giống nhau hai lần. Thị trường là một nghệ sĩ, nó không phải máy tính. Nó có những hình mẫu về hành vi cơ bản nhưng nó thường xuyên được điều chỉnh, kết hợp và thay đổi tùy vào tình huống và trường hợp cụ thể. Thị trường là một thực thể có cách vận động riêng của nó.

Chúng ta không thể mong đợi các mẫu hình giống hệt nhau lặp lại theo thời gian. Tuy nhiên, sẽ xuất hiện các mẫu hình có hành vi tương tự mà bạn có thể kiếm được lợi nhuận khi vận dụng nó đúng cách.

Quy tắc số 2

Hành vi của thị trường ngày hôm nay chỉ có ý nghĩa khi nó được so sánh với những gì nó đã làm hôm qua, tuần trước, tháng trước, thậm chí năm trước. Không thể dự đoán trước một cách chính xác bởi vì thị trường luôn luôn thay đổi. Tất cả mọi hành động thị trường làm ngày hôm nay phải được so sánh với những gì nó đã làm trong quá khứ.

Theo Wyckoff, nhà đầu tư có thể thấu hiểu và dự đoán thị trường thông qua phân tích chi tiết cung và cầu, được xác định bằng việc nghiên cứu hành động giá, khối lượng và thời gian. Ông đã mô tả một sơ đồ về các giai đoạn diễn ra trong một chu kỳ giá, từ đó xác định các thời điểm vào lệnh hợp lý. Theo đó, thời điểm để vào một lệnh Buy là ở cuối quá trình chuẩn bị cho một đợt tăng giá (cuối giai đoạn tích lũy) và vào lệnh Sell ở cuối quá trình chuẩn bị cho đợt giảm giá (kết thúc một giai đoạn phân phối).

2. Bốn chu kỳ của thị trường

Có 4 giai đoạn của chu kỳ giá hay sự biến động giá được lặp đi lặp lại. Và sự vận động của thị trường sẽ luôn thuộc 1 trong 4 trạng thái này:

4 giai đoạn của thị trường
4 giai đoạn của thị trường

2.1. Giai đoạn Tích Lũy (Accumulation)

Là giai đoạn mà những “ông lớn” trên thị trường bắt đầu tích lũy tài sản. Một số tiền lớn từ những thế lực này được đổ vào thị trường một cách khéo léo và chậm rãi để làm cho giá biến động không quá nhiều. Trong giai đoạn tích lũy, thị trường có xu hướng đi ngang.

2.2. Giai đoạn Tăng Giá (Uptrend)

Khi thị trường phá vỡ giai đoạn tích lũy sẽ bắt đầu giai đoạn tăng giá. Sau khi đã nắm được một lượng cổ phiếu đủ lớn, cộng thêm lực bán đã suy yếu, phe mua nhanh chóng đẩy giá đi lên, xu hướng mới được hình thành.

Giai đoạn tăng giá sẽ thúc đẩy những người đang ở bên ngoài thị trường nhảy vào mua cổ phiếu, khiến cho cầu lớn hơn cung, thị trường đẩy giá lên cao hơn nữa.

Tuy nhiên, trong giai đoạn tăng giá này, không nhất thiết là lúc nào giá cũng đi lên mà thị trường sẽ có những giai đoạn tích lũy ngắn (tái tích lũy, giai đoạn tạm nghỉ) hoặc những đợt suy thoái nhỏ (điều chỉnh giảm), khi đó, giá sẽ đi ngang hoặc giảm xuống trong một khoảng thời gian ngắn, trước khi tiếp tục giai đoạn tăng giá này.

2.3. Giai đoạn Phân Phối (Distribution)

Sau khi nhu cầu mua cổ phiếu đã thỏa mãn, những nhà đầu tư có lợi nhuận cao bắt đầu phân phối tài sản của mình cho những người nhập cuộc muộn bằng cách bán cổ phiếu ra để chốt lời. Giai đoạn này cũng được những “ông lớn” thực hiện một cách khéo léo để giá không giảm nhanh và thị trường lúc này cũng được thể hiện bằng một xu hướng đi ngang.

2.4. Giai đoạn Giảm Giá (Downtrend)

Những “ông lớn” bắt đầu bán cổ phiếu ra nhiều hơn, đẩy thị trường đi xuống, điều này thúc đẩy những nhà đầu tư khác cũng bán cổ phiếu ra làm cho lượng cung lớn hơn lượng cầu dẫn đến giá giảm.

So với giai đoạn tích lũy và tăng giá thì giai đoạn giảm giá diễn ra nhanh hơn với cường độ mạnh hơn vì trong giai đoạn này, nhà đầu tư có xu hướng muốn bán nhanh tài sản để thoát khỏi vị thế của mình.

Tương tự giai đoạn tăng giá, thị trường không phải lúc nào cũng đi xuống trong giai đoạn giảm giá mà sẽ có những khoảng thời gian ngắn thị trường sẽ tái phân phối hoặc điều chỉnh tăng (hay còn gọi là phục hồi tạm thời) trước khi tiếp tục xu hướng giảm.

Khi kết thúc giai đoạn giảm giá, thị trường sẽ lại tiếp tục chu kỳ bằng một giai đoạn tích lũy mới.

3. Thị trường là ngẫu nhiên hay xác định?

Vấn đề này là một trong những cuộc tranh luận lớn trong cộng đồng giao dịch và chắc chắn đang tạo ra rất nhiều tranh cãi. Đại đa số những người tự định vị mình ủng hộ sự ngẫu nhiên của thị trường làm như vậy với mục đích làm mất uy tín của phân tích kỹ thuật. Mặt khác, có những người quan sát từng biến động giá và cho rằng không phải mọi thứ đều phân định rõ ràng là chỉ có màu đen hay trắng.

Sự ngẫu nhiên dựa trên tiền đề là thị trường hiệu quả, trong khi chủ nghĩa xác định (không ngẫu nhiên) dựa trên sự kém hiệu quả của thị trường.

Cách tiếp cận thị trường ngẫu nhiên cho thấy giá hiện tại đã phản ánh tất cả thông tin về các sự kiện xảy ra trong quá khứ và thậm chí các sự kiện mà thị trường đã trải qua sẽ xảy ra trong tương lai. Nói cách khác, tất cả thông tin về tài sản được chiết khấu hoàn toàn và do đó không thể dự đoán hành động giá trong tương lai. Lý do là, khi người tham gia cố gắng tận dụng thông tin mới, họ sẽ vô hiệu hóa lợi thế đó để có được lợi nhuận. Điều này sẽ dẫn đến kết luận rằng không thể tận dụng cách giải thích riêng của thị trường, trừ khi nhà giao dịch có quyền truy cập vào thông tin nội bộ.

Cách tiếp cận thị trường xác định cho thấy rằng các chuyển động giá bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài vì vậy bằng cách biết những yếu tố đó là gì, bạn có thể dự đoán hành động giá trong tương lai và do đó có thể được hưởng lợi từ cách giải thích của thị trường. Khi chúng ta nói về sự ngẫu nhiên, có nghĩa là thị trường này không có ý định hợp lý đằng sau nó; nó chỉ đơn giản là một biến động giá. Sự ngẫu nhiên được sinh ra là kết quả của vô số biến số diễn ra trên thị trường. Không ai có thể biết những người tham gia thị trường khác sẽ hành động như thế nào. Nếu ai đó biết, họ sẽ có một hệ thống có thể dự đoán đúng mọi lúc.

Một mặt, nếu giả thuyết thị trường hiệu quả (EMH) và sự ngẫu nhiên của thị trường là hợp lệ, thì sẽ không ai có thể kiếm lợi nhuận trên cơ sở định kỳ. Và nó đã được chứng minh trong suốt lịch sử rằng đều này không hoàn toàn đúng. Tất cả chúng ta đều biết các nhà giao dịch tuyệt vời trên thị trường tài chính, những người đã quản lý để kiếm lợi nhuận với các cách tiếp cận khác nhau (kỹ thuật, cơ bản và định lượng).

Mặt khác, thị trường tài chính cũng không thể được mô hình hóa như một quá trình hoàn toàn xác định, nơi không có sự ngẫu nhiên và điều này có nghĩa là sẽ không có chiến lược giao dịch hay phương pháp nào đạt được xác suất thành công 100%.

3.1. Giả thuyết thị trường thích ứng

Do đó thị trường tài chính bao gồm một tỷ lệ phần trăm ngẫu nhiên và một tỷ lệ phần trăm xác định, mà không biết mỗi chính xác tỷ lệ bao nhiêu. Lý thuyết này sẽ được hỗ trợ bởi Giả thuyết thị trường thích ứng (AMH) cho thấy hiệu quả của thị trường tài chính không phải là một đặc điểm hiện tại hoặc tạm thời mà là thay đổi tùy theo điều kiện thị trường (môi trường, bối cảnh), được xác định bởi sự tương tác giữa các yếu tố của nó.

Giả thuyết này đã được nhà kinh tế tài chính người Mỹ Andrew W. Lo trình bày trong cuốn sách Adaptative Markets xuất bản năm 2017 và chủ yếu dựa trên:

  • Hiệu quả của thị trường phụ thuộc vào điều kiện của nó. Đặc điểm thay đổi này là kết quả của sự tương tác của người tham gia lần lượt phụ thuộc vào điều kiện thị trường.
  • Tác nhân không hoàn toàn hợp lý và phải chịu những thành kiến nhận thức. Một mô hình hoàn toàn hợp lý không thể được áp dụng vì những người tham gia hình thành kỳ vọng dựa trên các yếu tố khác nhau. Hơn nữa, với cùng một thông tin, những kỳ vọng khác nhau có thể được tạo ra, chưa kể mỗi tác nhân có mức độ khẩu vị rủi ro khác nhau.

3.2 Phương pháp Wyckoff phù hợp ở đâu?

Việc đọc thị trường theo các nguyên tắc của phương pháp Wyckoff dựa trên một sự kiện xác định của thị trường: Quy luật nhân quả, và đó là để thị trường phát triển theo một hiệu ứng (xu hướng) thì trước tiên phải có một nguyên nhân (tích lũy / phân phối). Có những sự kiện xác định khác có thể mang lại lợi thế, chẳng hạn như tính thời vụ.

» Tổng hợp Mô hình giá quan trọng

Ngoài ra các mô hình giá như Tam Giác, Vai Đầu Vai, Cờ, Hai Đỉnh Hai Đáy, … Các công cụ phân tích như Trendline đã cho thấy hành vi không ngẫu nhiên trên thị trường tài chính sẽ giúp chúng ta khai thác để có được lợi nhuận nhất định.

4. Lý thuyết thị trường đấu giá (Auction Market Theory)

Lý thuyết về cuộc đấu giá được sinh ra chủ yếu từ các nghiên cứu của J.P. Steidlmayer trên Hồ sơ thị trường. Sau đó, cùng với các tác giả khác như James Dalton và Donald L. Jones, họ đã định nghĩa một loạt các khái niệm cấu thành lý thuyết này.

Nó dựa trên thực tế là thị trường, với mục tiêu ưu tiên là tạo điều kiện cho việc đàm phán giữa những người tham gia và theo các nguyên tắc của luật cung và cầu, sẽ luôn di chuyển để tìm kiếm hiệu quả, còn được gọi là cân bằng hoặc giá trị hợp lý.

Thuyết thị trường đấu giá
Thuyết thị trường đấu giá

Hiệu quả (Effeciency) chỉ ra rằng người mua và người bán cảm thấy thoải mái khi đàm phán và không có sự kiểm soát rõ ràng (Vòng trong màu vàng). Sự thoải mái đó dựa trên điều kiện thị trường hiện tại, định giá của cả hai đều rất giống nhau. Cách thức này được quan sát trực quan trên biểu đồ giá với vòng quay liên tục (phạm vi giao dịch). Những bên giá này đại diện cho sự cân bằng này. Đó là bằng chứng về sự tạo điều kiện cho cuộc đàm phán và đó là trạng thái cân bằng làm cho thị trường đi ngang hoặc sideway.

Mặt khác, chúng ta có những khoảnh khắc không hiệu quả hoặc mất cân bằng (Imbalance) và những điều này được thể hiện trong các giai đoạn thị trường có xu hướng. Khi thông tin mới xuất hiện trên thị trường, điều đó có thể khiến giá trị mà cả người mua và người bán nhận thấy về những thay đổi giá trị tài sản đó tạo ra sự bất đồng giữa họ.

Một trong hai bên sẽ kiểm soát và di chuyển giá ra khỏi vùng cân bằng trước đó, mang lại cho chúng ta cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Điều hiển nhiên trong bối cảnh này là thị trường đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán và do đó nó được coi là một điều kiện không hiệu quả (Ineffeciency).

Thị trường sẽ liên tục di chuyển trong việc tìm kiếm và xác nhận giá trị; trong trường hợp người mua và người bán ở vị trí trao đổi cổ phiếu. Đó là bởi vì định giá mà những người tham gia này có giá giống nhau. Tại thời điểm đó, cuộc đàm phán sẽ tạo ra một khu vực cân bằng mới.

Chu kỳ này sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần theo cách không bị gián đoạn. Ý tưởng chung là thị trường sẽ chuyển từ vùng cân bằng này sang vùng cân bằng khác bằng các biến động xu hướng và những điều này sẽ bắt đầu khi cả người mua và người bán có sự khác nhau về giá trị hiện tại gây ra sự mất cân bằng.

Thị trường sẽ bắt đầu tìm kiếm khu vực tiếp theo sẽ tạo ra sự đồng thuận về giá trị giữa hầu hết những người tham gia. Cần lưu ý rằng thị trường dành phần lớn thời gian của mình trong các giai đoạn cân bằng, điều này là hợp lý do bản chất của thị trường dựa trên sự ủng hộ giữa những người tham gia. Đây là nơi các quá trình tích lũy và phân phối này diễn ra, như chúng ta đều biết là nơi phương pháp luận của Wyckoff.

4.1. Các yếu tố của thị trường

Quá trình đấu giá trên thị trường tài chính dựa trên giá trị. Để cố gắng giải mã giá trị đó nằm ở đâu, chúng ta cần đánh giá ba yếu tố sau đây:

Giá (Price)

Trong cơ chế đấu giá, giá được sử dụng như một công cụ khám phá. Đàm phán được tạo điều kiện bởi sự chuyển động của giá cả, dao động lên xuống khám phá các cấp độ khác nhau để xem những người tham gia phản ứng như thế nào với cuộc thám hiểm này.

Những biến động giá này công bố cơ hội. Nếu những người tham gia phản ứng với cuộc thăm dò đó bằng cách quan sát giá cả công bằng, nó sẽ kích hoạt đàm phán với họ. Ngược lại, nếu những khám phá về mức giá mới này không được coi là hấp dẫn đối với cả hai người tham gia, nó sẽ gây ra sự từ chối.

Thời gian (Time)

Khi thị trường thúc đẩy một cơ hội (đạt đến một mức độ hấp dẫn), nó sẽ sử dụng thời gian để điều chỉnh thời gian mà cơ hội đó sẽ có sẵn. Giá sẽ dành rất ít thời gian ở những khu vực có lợi cho một trong hai bên (người mua hoặc người bán).

Một lĩnh vực hiệu quả hoặc cân bằng sẽ được đặc trưng bởi mức tiêu thụ thời gian lớn hơn; trong khi một khu vực kém hiệu quả hoặc mất cân bằng sẽ được thể hiện bằng việc tiêu thụ thời gian ngắn.

Khối lượng giao dịch (Volume)

Khối lượng đại diện cho hoạt động giao dịch, số tiền đã được trao đổi từ một tài sản. Số tiền này cho thấy sự quan tâm hoặc thiếu quan tâm một mức độ nhất định. Dựa trên khối lượng, có những khu vực có giá trị hơn những khu vực khác. Quy tắc cơ bản là bạn càng thấy nhiều hoạt động trong một khu vực nhất định, những người tham gia thị trường càng có giá trị gán cho nó.

Giá + Thời gian + Khối lượng = Giá trị

Ba yếu tố này chịu trách nhiệm cung cấp cho chúng ta một quan điểm hợp lý, dựa trên các điều kiện hiện tại, nơi những người tham gia thị trường tin rằng giá trị của một tài sản cụ thể nằm ở đó. Thông qua giá cả, thị trường phát hiện ra các cấp độ mới, tiêu thụ thời gian cho thấy rằng một số chấp nhận trong khu vực mới đó và cuối cùng tạo ra khối lượng xác nhận rằng những người tham gia đã tạo ra một khu vực giá trị mới nơi họ giao dịch thoải mái.

Như chúng ta đã biết, các điều kiện đang thay đổi và do đó cần phải đánh giá lại liên tục các yếu tố này. Biết giá trị được đặt ở đâu là chìa khóa vì nó xác định tình trạng của thị trường và dựa trên điều này, chúng ta sẽ có thể đưa ra các ý tưởng giao dịch khác nhau.

4.2. Nhận thức giá trị

Thị trường liên tục luân phiên giữa 2 giai đoạn: phát triển ngang (cân bằng) hoặc phát triển dọc (mất cân bằng). Phát triển ngang cho thấy sự đồng thuận giữa những người tham gia trong khi phát triển dọc là một thị trường để tìm kiếm giá trị, để tìm kiếm những người tham gia giao dịch.

Kết hợp thuyết thị trường đấu giá và phương pháp Wyckoff
Kết hợp thuyết thị trường đấu giá và phương pháp Wyckoff

Thực tế là giá đang di chuyển thoải mái trong một phạm vi giao dịch (phát triển ngang) đại diện cho sự chấp nhận trong lĩnh vực đó, đó là bối cảnh mà giá cả và giá trị trùng khớp theo những người tham gia. Khi thị trường đang ở trong một trạng thái xu hướng (phát triển dọc) giá và giá trị không trùng khớp; trong bối cảnh này, giá sẽ di chuyển về phía trước và giá trị sẽ theo sau hay không (như một dấu hiệu chấp nhận và từ chối).

Dựa trên thực tế là giá trị hợp lý nhất nằm ở giữa phạm vi, việc chuyển sang đầu cuối sẽ được người mua coi là một mức giá đắt đỏ và đồng thời người bán sẽ coi nó là rẻ, vì vậy hành động của họ sẽ dẫn đến việc gửi giá trở lại khu vực công bằng nhất. Tương tự như vậy, việc chuyển sang đầu dưới của phạm vi sẽ được người mua coi là rẻ và đắt tiền bởi người bán, điều này sẽ gây ra sự thay đổi tăng thêm.

Trong bối cảnh này, chúng ta sẽ tìm cách mua ở mức thấp và bán ở mức cao với hy vọng rằng giá sẽ tiếp tục từ chối những thái cực đó. Và thông thường thị trường sẽ tiếp tục làm như vậy cho đến khi tình trạng của nó thay đổi.

Điều thú vị đến khi sự mất cân bằng xảy ra và giá rời khỏi vùng giá trị. Chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Khi giá rời khỏi phạm vi giao dịch, một sự thay đổi trong nhận thức về giá trị có thể xảy ra.

Nhiệm vụ của nhà điều hành bây giờ là đánh giá các mức báo giá mới này được chấp nhận hoặc từ chối. Giá đi trước hai biến số khác (thời gian và khối lượng) trong việc xác định các khu vực giá trị tiềm năng, nhưng cuối cùng thời gian và khối lượng sẽ xác nhận xem khu vực mới đó được tích lũy hay bị từ chối.

Việc chấp nhận một khu vực mới khi giá có thể được duy trì (tốn thời gian) và hợp đồng giữa người mua và người bán bắt đầu được đàm phán (khối lượng) thể hiện tất cả những điều này như một chuyển động đi ngang nhất định của giá. Ngược lại, chúng ta sẽ xác định sự từ chối khi giá nhanh chóng quay trở lại vùng giá trị cũ của nó biểu thị sự thiếu quan tâm và được chứng minh bằng một bước ngoặt mạnh mẽ.

Tất cả các diễn biến ngang kết thúc khi không còn thỏa thuận giữa những người tham gia về giá trị; trong khi tất cả các phát triển dọc kết thúc khi giá đạt đến một khu vực nơi có một thỏa thuận lại giữa họ. Đây là chu kỳ liên tục của thị trường. Bản thân ý tưởng này rất mạnh mẽ và với cách tiếp cận phù hợp, chiến lược giao dịch có thể được tạo ra xung quanh nó.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là lý thuyết đấu giá này là phổ quát và do đó nó phục vụ chúng ta đánh giá bất kỳ loại thị trường tài chính nào độc lập với tính thời gian được sử dụng.

5. Hồ sơ khối lượng (Volume Profile)

Hồ sơ khối lượng (Volume Profile) là một biến thể của Hồ sơ thị trường (Market Volume), một công cụ được thiết kế bởi J. Peter Steidlmayer vào năm 1985 cho Hội đồng Thương mại Chicago (CBOT). Steidlmayer là một nhà giao dịch và thành viên điều hành trong thị trường tương lai và quyền chọn quan trọng này trong hơn 40 năm. Phương pháp này trình bày lại phiên đấu giá ban đầu chỉ dành cho các thành viên CBOT nhưng nhanh chóng lan rộng ra nước ngoài.

Không giống như phân tích Dòng lệnh (Order Flow), Hồ sơ Khối lượng là khách quan vì nó không yêu cầu bất kỳ cách giải thích nào và do đó cung cấp cho chúng ta thông tin rất hữu ích để phân tích và lập kế hoạch giao dịch. Voulme Proflie đơn giản là một hình thức biểu diễn khác của dữ liệu khối lượng. Nó xác định rất rõ ràng và chính xác số lượng hợp đồng bị phủ nhận ở các mức giá khác nhau.

6. Lý thuyết thị trường đấu giá và Hồ sơ khối lượng

Hồ sơ khối lượng sử dụng các nguyên tắc của Lý thuyết thị trường đấu giá để đưa nó vào thực tế và để hình dung các lĩnh vực quan tâm trên biểu đồ. Vùng giá tập trung được đo lường bằng các hoạt động đã được tạo ra trong một khu vực cụ thể; và hoạt động đó được xác định bởi khối lượng giao dịch.

Do đó, công cụ này sẽ giúp chúng ta xác định các vùng giá được tập trung lớn nhất và ít tập trung nhất. Từ đó phục vụ để đánh giá giá khi tương tác với chúng để xác định xem việc chấp nhận hay từ chối đang xảy ra.

Tất cả các nguyên tắc này dựa trên tiền đề rằng thị trường có trí nhớ và có xu hướng lặp lại hành vi. Do đó, dự kiến trong tương lai một số khu vực nhất định sẽ hoạt động giống như họ đã làm trong quá khứ. Một điều chúng ta cần được chú ý đến là bộ nhớ của thị trường chủ yếu là ngắn hạn. Điều này có nghĩa là các khu vực giao dịch gần đây quan trọng hơn những khu vực cũ. Nếu giá bắt đầu mất cân bằng, vùng đầu tiên cần tính đến sẽ là vùng cân bằng trước đó ngay lập tức nhất.

Giá càng vượt ra xa khỏi một vùng Acceptance (Chấp nhận giá), nó sẽ càng ít có ý nghĩa. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được rằng các vùng cân bằng này ngay lập tức rất có thể sẽ là những khu vực mà thị trường sẽ tìm kiếm lại, vì chúng là những khu vực đại diện tốt nhất cho giá trị tại thời điểm hiện tại.

7. Bố cục hồ sơ khối lượng

Các hồ sơ khối lượng được quan sát trực quan trên biểu đồ dưới dạng biểu đồ ngang trong đó các giá trị của chúng được phân phối theo cuộc đàm phán mà mỗi mức giá đã có. Tùy thuộc vào số lượng hợp đồng được giao dịch ở mỗi mức giá, hình thức phân phối sẽ khác nhau. Càng nhiều giao dịch, chiều dài của đường ngang càng dài; trong khi độ dài ngắn đại diện cho ít giao dịch.

Bố cục hồ sơ khối lượng
Bố cục hồ sơ khối lượng

Nó có ba độ lệch chuẩn ở mỗi bên, nằm ở khoảng cách bằng nhau và đo lượng biến đổi hoặc phân tán xung quanh một mức trung bình. Nó cũng là một thước đo biến động.

Độ lệch chuẩn đầu tiên chiếm 68,2% dữ liệu và đạt đến độ lệch thứ hai 95,4%.

Vùng giá trị (VA)

Ví dụ thực sự này ở dạng phân bố bình thường trong đó các giá trị được phân bố ở trên và dưới xung quanh điểm trung tâm. Dữ liệu được sắp xếp theo trục dọc nơi giá được đặt và trục ngang đại diện cho thay đổi khối lượng. Công cụ này thường được tích hợp sẵn trên các biểu đồ kỹ thuật như là công cụ đo đạc trên nền tảng giao dịch:

Công cụ Fixed Range Volume Profile
Công cụ Fixed Range Volume Profile

Vùng giá trị được xác định giữa Vùng giá trị cao (VAH) và Vùng giá trị thấp (VAL), là một phần của độ lệch chuẩn đầu tiên và đại diện chính xác 68,2% tổng khối lượng bị phủ nhận trong hồ sơ đó. Đây là khu vực được giao dịch nhiều nhất của hồ sơ và do đó được coi là khu vực chấp nhận.

Vùng giá trị (VA)
Vùng giá trị (VA)

Khối lượng giao dịch ngoài vùng giá trị chiếm 31,8% còn lại. Đây là khu vực ít bị phủ nhận nhất của hồ sơ và do đó được coi là khu vực từ chối. Mức cao và thấp của vùng giá trị (VAH và VAL) sẽ đóng vai trò hỗ trợ và các khu vực kháng cự vì một số tương tác được mong đợi ở trên chúng.

Chiều rộng của khu vực giá trị để lại dấu vết về điều kiện thị trường. Một Khu vực giá trị lớn cho thấy rằng có một sự tham gia lớn của nhà giao dịch, tất cả đều mua và bán với giá họ muốn; trong khi một Khu vực giá trị hẹp là một dấu hiệu của hoạt động thấp.

Extremes (Điểm cực trị)

Đây là mức giá cao nhất (High) và thấp nhất (Low) đạt được trong vùng Hồ Sơ Khối Lượng đó. Các mức giá này phải luôn được coi là điểm tham khảo chính. Tùy thuộc vào cuộc đàm phán được tạo ra ở những cực trị này, chúng ta có thể xem xét rằng chúng đại diện cho các cuộc đấu giá đã hoàn thành hoặc chưa hoàn thành.

Đấu giá chưa hoàn thành (Unfinished Auction): Nó xuất hiện dưới dạng mức khối lượng Lớn ở cuối hồ sơ. Ngầm thể hiện rằng đã có một sự quan tâm lớn đàm phán trong khu vực này và do đó rất có thể sẽ có một chuyến thăm của giá quay lại trong vùng này trong tương lai. Trong chuyến thăm tiếp theo, chúng ta cần chú ý là thị trường sẽ hoàn thành quá trình đấu giá hoặc tiếp tục đàm phán và đi theo xu hướng đó.

Đấu giá hoàn thành (Finished Auction): Khi mức giá được khớp lệnh xong, chúng được nhìn nhận với một cuộc đàm phán giảm dần về phía cực trị. Nó thể hiện sự thiếu quan tâm khi giá đạt đến mức xa hơn so với vùng giá trị, cuối cùng cho thấy sự từ chối rõ ràng của thị trường để giao dịch trong khu vực đó.

Đấu giá hoàn thành và chưa hoàn thành
Đấu giá hoàn thành và chưa hoàn thành

Theo bản chất, đây là một vùng khối lượng Thấp. Giá đã đạt đến một điểm mà các trader đã coi đó là một cơ hội thuận lợi và đã tham gia gây ra sự từ chối đó. Việc thiếu sự tham gia từ phía đối diện được thể hiện bằng sự sụt giảm khối lượng này.

Tiếp theo chúng ta cùng quan sát biểu đồ Bitcoin khung thời gian ngày bên dưới:

Biểu đồ Bitcoin khung thời gian ngày thể hiện cuộc đấu giá chưa hoàn thành và hoàn thành
Biểu đồ Bitcoin khung thời gian ngày thể hiện cuộc đấu giá chưa hoàn thành và hoàn thành

Dựa trên biểu đồ bên trên, khái niệm về một cuộc đấu giá đã hoàn thành hoặc chưa hoàn thành này có thể rất hữu ích. Bởi vì nếu chúng ta đang đánh giá khả năng giá để lại một vùng cân bằng phía trên (Unfinished Auction), chúng ta sẽ thấy rằng ở phần dưới của khu vực này, những cuộc đấu giá đã hoàn thành cho thấy sự thiếu quan tâm trong việc đàm phán ở đó.

Như chúng ta thấy rằng trước khi bắt đầu chuyển động lên, sẽ có một chuyến thăm giá ở phần thấp đó với mục tiêu kiểm tra sự quan tâm trong khu vực đó để lấp thanh khoản của khu vực đó (Filled Volume).

Điểm kiểm soát khối lượng (VPOC – Volume Price Of Control)

Đây là vùng giá có mức độ tập trung khối lượng cao nhất trong hồ sơ đó. Được thể hiện bằng đường line màu đỏ trong các biểu đồ bên trên. Nó đại diện cho vùng giá được chấp nhận nhiều nhất bởi cả người mua và người bán (cảm thấy thoải mái nhất).

Vì hầu hết khối lượng đến từ nơi mà các nhà giao dịch lớn này đã tích lũy hầu hết các vị thế của họ. Họ thường tích lũy hợp đồng trong một loạt các mức giá nhưng VPOC đại diện vì nó xác định nơi mà khối lượng là lớn nhất.

Sự đồng thuận rộng rãi giữa những người tham gia sẽ gây ra biến động xung quanh đường VPOC này. Hành động giá sẽ được duy trì cho đến khi thông tin mới xuất hiện làm mất cân bằng của những người tham gia. Từ đó, xu hướng sẽ thay đổi theo cách mà thị trường mong muốn.

VPOC cho phép chúng ta thiết lập ai là người kiểm soát thị trường. Nếu giá ở trên đường VPOC, chúng ta sẽ xác định rằng người mua sẽ có quyền kiểm soát, vì vậy sẽ có ý nghĩa hơn khi giao dịch dài hạn; ngược lại nếu giá ở dưới đường VPOC, người bán sẽ kiểm soát, vì vậy giao dịch ngắn hạn sẽ là một lựa chọn tốt hơn.

Lưu ý: Theo bản chất VOPC sẽ luôn là một mức Khối lượng lớn, nhưng không phải tất cả các mức Khối lượng lớn sẽ là VPOC.

Khối lượng trọng số trung bình giá (VWAP – Volume Weighted Average Price)

Nếu có một cấp độ được sử dụng rộng rãi bởi các tổ chức lớn thì đó là VWAP. Các giao dịch khổng lồ tìm cách thực hiện ở mức giá mà VWAP được tìm thấy và đó là lý do tại sao VWAP được xem là một yếu tố quan trọng mà chúng ta không nên bỏ qua. Các tổ chức coi VWAP như một biện pháp tham khảo để đánh giá chất lượng các quyết định của họ.

Nó được hiển thị trên biểu đồ dưới dạng đường trung bình động truyền thống và vị trí của nó thay đổi khi các giao dịch được thực hiện. Nói chung, tùy thuộc vào phong cách giao dịch: phiên, hàng tuần, hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm,… được sử dụng. VWAP được sử dụng bởi các nhà khai thác tổ chức chủ yếu là trung bình để xác định giá trị của tài sản tại thời điểm cụ thể đó. Vì vậy họ cho rằng họ đã mua rẻ nếu giá dưới VWAP và họ đã mua đắt nếu giá ở trên VWAP.

VWAP (Volume Weighted Average Price)
VWAP (Volume Weighted Average Price)

Trong một thị trường ở mức cân bằng, giá dưới VWAP sẽ được coi là rẻ và giá cao hơn đắt; nhưng khi thị trường mất cân bằng VWAP sẽ không đạt hiệu quả vì giá trị đã bị thay đổi. Tùy thuộc vào khung thời gian, chúng ta có thể sử dụng các cấp độ khác nhau của VWAP. Được sử dụng phổ biến nhất là phiên VWAP cho các Trader trong ngày và VWAP hàng tuần và hàng tháng cho các Trader thác trung và dài hạn.

Mức khối lượng cao (HVN – High Volume Node)

Đây là những khu vực đại diện cho sự cân bằng (Balance) và mức độ quan tâm cao của tất cả những người tham gia thị trường vì cả người mua và người bán đều cảm thấy thoải mái khi thực hiện các giao dịch ở đó. Sau đây được quan sát dưới dạng đỉnh trong hồ sơ khối lượng.

Mặc dù đối với ví dụ này, tôi đã sử dụng hồ sơ loại Composite, các nguyên tắc cơ bản có giá trị như nhau và áp dụng cho tất cả các hồ sơ.

High Volume Node (HVN)
High Volume Node (HVN)

Các vùng cân bằng trong quá khứ hoạt động như nam châm thu hút giá cả và giữ nó ở đó. Như trong quá khứ đã có một số sự đồng thuận giữa người mua và người bán, trong tương lai chính xác điều tương tự dự kiến sẽ xảy ra. Đây là lý do tại sao chúng là những khu vực rất thú vị để thiết lập mục tiêu. Trong cùng một cấu hình, các mức HVN khác nhau có thể được xác định như biểu đồ bên trên.

Mức khối lượng thấp (LVN – Low Volume Node)

Đây là những lĩnh vực đại diện cho sự mất cân bằng (Imbalance) hoặc từ chối (Reject). Cả người mua và người bán đều không cảm thấy thoải mái khi hoạt động và do đó giá cả “không công bằng” được xem xét theo một cách nào đó. Nó được quan sát như các thung lũng trong hồ sơ khối lượng.

Low Volume Node (LVN)
Low Volume Node (LVN)

Vì trong quá khứ không có sự đồng thuận, dự kiến trong tương lai sẽ gây ra một số từ chối (Reject) hoặc mất cân bằng (Imbalance), vì vậy đây là những khu vực hỗ trợ và kháng cự thú vị để tìm kiếm các mục tiêu tiềm năng.

Điều quan trọng là phải hiểu rằng sự từ chối có thể được thể hiện bằng giá theo hai cách:

V-turn

Nhận thức về giá trị không thay đổi đối với khu vực cân bằng trước đó và có sự từ chối giao dịch ở các cấp độ đó. Thị trường quay hoàn toàn xung quanh để vào lại khu vực trước đó, nơi người mua và người bán thoải mái giao dịch. Ví dụ được thể hiện màu hồng ở biểu đồ trên.

Điều kích động phản ứng này trong giá trước hết là vị trí của các lệnh thụ động chờ đợi trên khu vực này để chặn chuyển động, cùng với một sự xâm nhập tiếp theo xác nhận lượt V và trở lại khu vực giá trị trước đó.

Chuyển động nhanh 

Nhận thức của những người tham gia về giá trị đã thay đổi và được thể hiện bằng giá bởi một động cơ bạo lực. Thị trường dựa trên thông tin mới từ chối giao dịch ở các cấp độ của LVN và vượt qua nó một cách nhanh chóng. Biểu đồ thể hiện màu đỏ (Imbalance) như ví dụ trên.

Về mặt kỹ thuật, nguyên nhân gây ra sự chuyển động nhanh chóng này một mặt là việc thực hiện các lệnh bảo vệ (Stop Loss) của những người đã đặt ở phía đối diện; và kích hoạt các chiến lược đi vào mạnh mẽ với các lệnh thị trường. Bạn sẽ thấy trên biểu đồ nến của phạm vi rộng đi kèm với một khối lượng lớn. Như với HVNs, nhiều mức âm lượng thấp có thể được hiển thị trong cùng một cấu hình.

8. Phân tích ngữ cảnh

Điều đầu tiên việc cần làm khi phân tích bất kỳ biểu đồ nào là xác định ngữ cảnh của giá: phạm vi giao dịch hoặc xu hướng. Chúng ta hãy xem tóm tắt ngắn gọn về các khả năng hoạt động tùy thuộc vào ngữ cảnh:

Phân tích ngữ cảnh
Phân tích ngữ cảnh

Trong biểu đồ này, chúng ta có một sơ đồ tích lũy lý tưởng. Chúng ta cùng xem xét bối cảnh hoạt động được dựa trên phương pháp Wyckoff kết hợp với các nguyên tắc của Volume Profile như thế nào nhé.

Trong ba cơ hội hoạt động đầu tiên ở mức cực trị (1) của phạm vi giao dịch, nó sẽ phù hợp với nguyên tắc phạm vi giao dịch hoạt động bởi Volume Profile.

» Kiến thức Price Action

Sau Spring, giá phục hồi về vùng giá trị và chúng ta thấy lại sự hợp lưu của cả hai nguyên tắc: Sử dụng phương pháp Wyckoff, chúng ta sẽ tìm kiếm một sự kiểm nghiệm phần cao của cấu trúc Volume Profile, theo nguyên tắc hoạt động đảo ngược nơi chúng ta sẽ tìm kiếm chuyến thăm đến đầu đối diện của khu vực giá trị hồ sơ (VAH). Giá bắt đầu di chuyển lên theo hướng về phía VAH.

Dĩ nhiên trước khi đạt đến VAH, giá phải điều chỉnh lại như là việc kiểm tra lại các mức VAL và VPOC. Đây là những hoạt động kiểm chứng sức mạnh của phe Mua cũng chính là những điểm tiềm năng thích hợp để thực hiện giao dịch vào bên trong phạm vi (2). Hay còn gọi là các điểm Spring và LPS.

Khi giá rời khỏi phạm vi giao dịch, chúng ta sẽ ở trong bối cảnh xu hướng và trong tình huống này, cơ hội đầu tiên sẽ nằm trong đợt kiểm tra lại sau khi giá đột phá (3) theo phương pháp Wyckoff, chúng ta sẽ tìm kiếm sự hợp lưu tại mức giá này và dựa trên các nguyên tắc hoạt động của Volume Profile, kịch bản hoạt động tiếp tục sẽ được kích hoạt trong trường hợp cuối vùng giá trị (trong ví dụ này tăng lên trên Vùng giá trị cao).

Khi thị trường đã xác nhận đi theo cấu trúc của xu hướng, bây giờ là lúc chúng ta sẽ phải làm việc với bối cảnh cách xa khu vực giá trị (4), nơi chúng ta mong đợi một số đợt điều chỉnh để tìm điểm vào lệnh theo xu hướng hiện tại.

9. Bối cảnh phạm vi giao dịch

Đây là công đoạn xác định xu hướng tiếp theo là sẽ hướng lên hoặc hướng xuống. Giai đoạn này có thể xuất hiện trong 1 phiên hoặc vài phiên thậm chí là vài tuần. Nếu nó diễn ra trong nhiều phiên, cách tốt nhất là chúng ta sẽ xác định hồ sơ khối lượng của các phiên rồi nối chúng lại với nhau thành một khu vực liền mạch.

9.1. Các cực trị của phạm vi giao dịch (At Extremes)

Chúng ta quan sát điểm dừng của chuyển động xu hướng trước đó và tại các vùng cận biên của vùng giá trị, chúng ta sẽ xác định rằng chúng ta đang ở trong một bối cảnh phạm vi trong vùng cân bằng và hoạt động ở đây sẽ dựa trên việc tìm kiếm sự đảo chiều trong các cực trị của cấu trúc; nghĩa là Mua ở vùng biên dưới (VAL) và Bán ở vùng biên trên (VAH).

Thực tế là giá được báo giá trong một khu vực có giá trị cho chúng ta thấy rằng số dư là tổng số giữa người mua và người bán. Cả hai đều không có quyền kiểm soát và do đó giá dự kiến sẽ tiếp tục di chuyển trong cùng một động lực.

Bối cảnh hoạt động ở đây sẽ là sự đảo chiều tại các điểm cực trị của phạm vi giao dịch.

Theo phương pháp của Wyckoff, đó sẽ là vấn đề tìm cách tham gia vào giai đoạn C. Đó là, nếu chúng ta đang đối mặt với phần cao của cấu trúc, chúng ta sẽ tìm kiếm Upthrust; trong khi nếu chúng ta ở phần thấp, chúng ta sẽ tìm kiếm Spring. Sự phát triển thực sự của nó sẽ gợi ý các đợt bật lên bật xuống như một quả bóng trong một đường ống.

Theo Volume Profile, chúng ta sẽ cố gắng chờ đợi các hoạt động đảo chiều trên các giới hạn của khu vực giá trị. Do đó, chúng ta sẽ tìm kiếm đợt sóng giảm trên Vùng giá trị cao (VAH) và đợt sóng tăng trên Vùng giá trị thấp (VAL). Việc từ chối các khu vực như vậy sẽ ủng hộ cho những đợt ghé thăm đầu đối diện của khu vực giá trị.

9.2. Bên trong phạm vi giao dịch (Inside the Trading Range)

Nếu bạn đang ở trong một phạm vi giao dịch lớn và có đủ không gian, bạn cũng có thể đề xuất một hoạt động tìm kiếm các thái cực. Điều này đặc biệt được khuyến nghị khi chúng ta đã thấy một cú sốc trước đó cung cấp cho chúng ta một bối cảnh định hướng rõ ràng hơn.

Bối cảnh phạm vi giao dịch
Bối cảnh phạm vi giao dịch

Mặt khác, nếu phạm vi giao dịch đủ rộng, một số kịch bản có thể được đưa ra trong đó. Theo phương pháp luận của Wyckoff, trong trường hợp quan sát thấy rằng giá có thể đã có những đợt test lại vùng giá quan trọng trong Giai đoạn C, đó sẽ là động lực cho chuyển động xu hướng trong phạm vi giao dịch thuộc Giai đoạn D.

Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ cần tìm kiếm vị trí có mức Risk: Reward (Rủi ro: Lợi nhuận) tốt để vào lệnh.

Thực tế là giá có thể đạt đến một trong những mức này và phá vỡ hiệu quả nó sẽ cho thấy rằng đây là một số kiểm soát của các nhà khai thác theo hướng đó. Cùng với một Mức Khối lượng lớn (HVN), chúng ta sẽ xác định được sự thiên vị thị trường.

Trong một hồ sơ rộng, chúng ta sẽ có thể xác định được các khu vực mà tại đó sự đàm phán giá với mức cao và thấp khác nhau. Chúng ta phải khắc phục rằng Mức Khối lượng cao (HVN) cuối cùng được tạo ra sẽ là khu vực xác định độ lệch định hướng ít nhất là trong ngắn hạn nhất. Miễn là giá vẫn ở trên, chúng ta sẽ chỉ nên đề xuất các kịch bản tăng giá và ngược lại nếu chúng ta ở phía dưới thì chỉ ưu tiên cho một xu hướng giảm giá.

Một mức khối lượng cao (HVN) chỉ là một giai đoạn của giá. Nếu chúng ta thấy giá ở trên nó, chúng ta có thể nghĩ rằng HVN này là một sự tích lũy. Do đó, để mua, chúng ta cần được bảo vệ bởi sự tích lũy bên dưới nó.

Điều ngược lại, nếu chúng ta thấy mình ở dưới một HVN, nó sẽ được xác định là một giai đoạn phân phối, khiến chúng ta suy nghĩ rằng việc giao dịch ngắn hạn sẽ là điều thích hợp nhất cho giai đoạn này.

Loại hoạt động trong phạm vi giao dịch này sẽ phụ thuộc cách quản lý lệnh của trader sao cho khi giá đạt đến các cực trị của vùng cân bằng. Vì theo nguyên tắc không bên nào có quyển kiếm soát đến khi sự mất cân bằng cuối cùng được gây ra.

10. Bối cảnh xu hướng

Khi một xu hướng được xác định, trader chỉ nên chờ đợi những đợt điều chỉnh để cố gắng tham gia thị trường.

Biểu đồ ví dụ minh họa phân tích ngữ cảnh giao dịch
Biểu đồ ví dụ minh họa phân tích ngữ cảnh giao dịch

10.1. Trong xu hướng tương tác với vùng giá trị

Nếu sau khi đi ngang, một sự không hiệu quả xảy ra khiến giá ra khỏi vùng cân bằng, chúng ta nên đánh giá khả năng phá vỡ hoặc rung lắc. Nếu các dấu hiệu được phân tích cho chúng ta thấy rằng nó có thể là tín hiệu phá vỡ hiệu quả, hành động ở đây sẽ là tìm kiếm sự xác nhận phá vỡ cấu trúc và điểm vào lệnh hợp lý.

10.2. Trong xu hướng cách xa vùng giá trị

Một khi vùng giá cân bằng bị phá vỡ được xác nhận, bây giờ chúng ta sẽ ở trong bối cảnh xu hướng và việc chấp nhận ở các cấp độ mới này, nơi chúng ta sẽ chỉ nên hành động theo xu hướng đó.

Câu hỏi đặt ra là chúng ta đối với thị trường hiện tại, chúng ta đang ở trong bối cảnh nào? Câu trả lời là bạn cần xác định loại chiến lược nào sẽ được áp dụng. Như chúng ta đã biết, hai điều kiện duy nhất mà thị trường có thể đạt được chủ yếu là cân bằng hoặc mất cân bằng. Do đó, về cơ bản chúng ta sẽ làm việc trong phạm vixu hướng.

Sau một chuyển động cho thấy sự mất cân bằng ở bên này (VAH) hay bên kia (VAL), chúng ta sẽ tìm kiếm điểm vào lệnh theo hướng đó bằng cách chờ đợi một đợt điều chỉnh giá ở một số vùng giá quan trọng (LPS).

Việc giá thoát khỏi vùng phạm vi giao dịch gây ra sự mất cân bằng và điều đầu tiên cần đánh giá là nó không phải là một sự phá vỡ thất bại tạo ra một cú sốc (Upthrust/ Spring) với việc tái nhập vào vùng giá trị. Nếu các tín hiệu xác nhận cho thấy đó là một sự phá vỡ hiệu quả, ưu tiên của chúng ta bây giờ nên tìm kiếm cơ hội vào lệnh đi theo xu hướng phá vỡ đó.

Theo phương pháp Wyckoff, nếu chúng ta quan sát một chuyển động mạnh cố ý phá vỡ cấu trúc, chúng ta sẽ tìm kiếm các điểm vào lệnh tại những vị trí mà giá hồi về sau khi phá vỡ trong Giai đoạn D.

Cách thức này cũng hữu ích cho các nhà giao dịch không theo cấu trúc. Logic hoàn toàn giống nhau. Dựa trên phân tích Hồ sơ Khối lượng thuần túy, chúng ta có thể đợi giá rời khỏi một khu vực giá trị nhất định và sau đó đợi hồi về và test lại khu vực này. Sau đó, đợi tín hiệu xác nhận rằng xu hướng phá vỡ sẽ tiếp tục thì chúng ta sẽ vào lệnh theo xu hướng đó.

Để cố gắng xác định xem chúng ta có thực sự phải đối mặt với một sự vỡ thực sự tiềm ẩn hay không, chúng ta sẽ phân tích các dấu hiệu khác nhau.

Đây là những dấu hiệu chính để làm rõ liệu phá vỡ có phải là thực sự hay là phá vỡ giả (Upthrust/ Spring), bạn cần tính đến:

  • Đặc điểm của cú sốc: Hành động chính là để lấy thanh khoản. Cú sốc giá càng sâu, kịch bản cho sự phá vỡ càng mạnh. Mặc dù đôi khi có những cú sốc cục bộ (trong phạm vi giao dịch), ban đầu chúng ta sẽ chờ đợi sự rung lắc chạm đến mức cực trị vị khi giá chạm đến những cực trị của vùng phạm vi sẽ cho chúng ta mức độ tin cậy hơn.
  • Giá và khối lượng từ sau cú sốc và tại thời điểm phá vỡ: Nến có sự dịch chuyển tốt và khối lượng lớn biểu thị sự kiểm soát của một bên (người mua hoặc người bán). Vì chúng ta đang phải đối mặt với một vùng thanh khoản có khả năng một khối lượng tương đối cao sẽ xuất hiện và thậm chí một số bóng nến sẽ được quan sát. Điều này là bình thường và ban đầu không nên khiến chúng ta nghĩ rằng đó có thể là một cú sốc vì hành vi hấp thụ có đặc điểm này: khối lượng cao và khả năng rút râu nến. Đây là chìa khóa là trong những gì xảy ra tiếp theo.
  • Phản ứng sau khi tìm kiếm việc trở lại khu vực phạm vi giao dịch: Sau khi phá vỡ một vùng giá trị, chúng ta phải đợi giá được chấp nhận ở những vùng giá mới mà nó sẽ được chấp nhận giá. Điều này ban đầu sẽ được chứng minh bằng sự di chuyển về một bên trên thị trường ra bên ngoài phạm vi giao dịch. Một mô hình nến đảo chiều mạnh sẽ thêm sức mạnh lớn hơn cho kịch bản từ chối giá. Và quan sát sự di chuyển của VPOC đến khu vực mới hoặc tạo ra một VPOC mới (có thể là của một phiên giao dịch sau đó). Điều này ban đầu thể hiện sự chấp nhận nhưng vẫn cần phải chờ để xác nhận hành động.

11. Kiến Thức Cần Đạt Được Khi Hoàn Thành Khóa Học

Mặc dù các quy luật và nguyên tắc của phương pháp Wyckoff khá đơn giản nhưng để tiếp cận chúng một cách có hiệu quả trên thị trường là tương đối khó khăn. Các mô hình của Wyckoff giúp cho chúng ta các nhìn tổng quan về các giai đoạn hiện tại của thị trường là đang ở giai đoạn Tích Lũy, Tăng Giá, Phân Phối hay Giảm Giá. Tuy nhiên, để áp dụng tốt trên thị trường bạn cần phải đọc kỹ để hiểu rõ về từng loại giai đoạn, vùng giá trị cũng như từng mô hình Volume khác nhau. Đồng thời rèn luyện và áp dụng trên thị trường thực tế để có thể hiểu rõ hơn.

Đội ngũ TRADERPTKT.COM sẽ tóm tắt một số ý chính để bạn có thể tập trung vào hơn ở bên dưới đây.

Việc đọc phân tích của bạn về ai là người kiểm soát thị trường và những gì kịch bản có khả năng xảy ra nhất chính là điều cực kỳ quan trọng. Trong mọi trường hợp, cần phải nhớ rằng chúng ta hoàn toàn không kiểm soát thị trường và nhiệm vụ của chúng ta là đưa ra các kịch bản có xác suất cao nhất có thể, biết rằng những tình huống này sẽ xảy ra.

Ngoài ra, chúng ta cũng tính đến điều đó, có một trong những quy tắc bảo toàn vốn, bạn có thể không tận dụng được vị thế lệnh của bạn mong đợi nhưng ít nhất bạn không được cố chấp đi theo ngược xu hướng của thị trường. Từ đó bạn sẽ không thêm bất kỳ tổn thất nào.

11.1. Phương pháp luận Wyckoff

Đây là nền tảng cho cách tiếp cận phân tích chiến lược giao dịch của khóa học này, bởi vì nó cung cấp cho chúng ta một bối cảnh để đưa rat các kịch bản có thể xảy ra và bởi vì nó cung cấp cho chúng ta các công cụ phân tích khác nhau để đánh giá ai có thể kiểm soát thị trường. Đó là ba luật cơ bản và các quá trình tích lũy và phân phối.

Trong số ba luật, có một quy luật nổi bật nhất của phương pháp Wyckoff chính là Luật Cung và Cầu. Nó là cơ sở của mọi thị trường tài chính. Bởi vì cho là có bất kỳ loại người tham gia, ý định, định gái hoặc bất cứ điều gì khác liên quan đến việc định vị một lệnh, cuối cùng tất cả là đều thực hiện một hành vi giao dịch. Chính là mua và bán. Và điều này là phổ quát.

Ngoài ra, các quá trình tích lũy và phân phối, đi đôi với luật nhân quả cung cấp cho chúng ta một hình ảnh rất chân thực về cách thức thị trường di chuyển. Không có nghi ngờ rằng để hình dung một hiệu ứng dưới dạng xu hướng tăng, trước tiên sẽ cần phải phát triển một nguyên nhân tích lũy; và để có hiệu ứng đi xuống diễn ra trước tiên sẽ cần phải có một quá trình phân phối.

Chúng ta hiểu rằng sự tương tác giữa cung, cầu, người mua và người bán sẽ tạo ra các cấu trúc liên tục được lặp đi lặp lại. Việc xác định thực sự các cấu trúc này giúp chúng ta nhận ra bối cảnh mà chúng ta thấy mình để ủng hộ sự phát triển ở bên này hay bên kia. Tại thời điểm này, điều quan trọng là phải nhấn mạnh những gì chúng ta hiểu cách thức các cấu trúc nhỏ sẽ phù hợp với những cấu trúc lớn hơn (cấu trúc nhỏ nằm trong cấu trúc lớn).

Cuối cùng, phương pháp tiếp cận phương pháp Wyckoff cung cấp cho chúng ta một loạt các công cụ phân tích để đánh giá ai đang tham gia vào thị trường trong quá trình phát triển các cấu trúc.

11.2. Lý thuyết thị trường đấu giá

Mặc dù Richard Wyckoff đã không nắm bắt những khái niệm này trong nghiên cứu của mình, sự cân bằngsự mất cân bằng vẫn là lý do đằng sau sự phát triển của xu hướng.

Một loạt các quá trình tích lũy hoặc phân phối, các thuật ngữ mà Wyckoff đã sử dụng, chính xác là các khu vực cân bằng nơi người mua và người bán trao đổi hợp đồng của họ như một dấu hiệu của hiệu quả thị trường – một thuật ngữ được sử dụng bởi lý thuyết đấu giá. Điều tương tự cũng xảy ra với các chuyển động xu hướng lên và xuống, về bản chất đại diện cho sự kém hiệu quả và mất cân bằng.

11.3. Hồ sơ khối lượng (Volume Profile)

Hồ sơ khối lượng (Volume Profile) là một công cụ xác định khách quan các khu vực đàm phán hoặc mức độ hoạt động bất khả kháng nhất dựa trên khối lượng. Việc phân tích hồ sơ giúp chúng ta cải thiện khả năng xác định các cấu trúc chủ yếu cho những trường hợp diễn biến theo cách bất thường hơn và những nơi các sự kiện không dễ xác định.

Các ứng dụng thú vị khác mà nó cung cấp cho chúng ta là xác định sự thiên vị của thị trường thông qua việc phân tích các khu vực giao dịch và mức độ hoạt động; cũng như phân tích sức khỏe xu hướng thông qua việc đánh giá liên tục sự phát triển của các khu vực giá trị.

Cuối cùng, nó cũng có thể cực kỳ hữu ích để tính đến việc hiệu chỉnh quản lý vị trí; tất cả mọi thứ liên quan đến việc tham gia hoạt động, vị trí của lệnh dừng lỗ và thiết lập việc chốt lời.

Ngoài ra, bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các thông tin cần thiết từ trang TRADERPTKT.COM. Đây là trang có đầy đủ các thông tin và kiến thức đầu tư từ cơ bản đến nâng cao.

» Khóa học Wyckoff từ A đến Z

Bạn đang gặp vấn đề gì trong giao dịch? Hãy 'Vote' bên dưới để tôi có thể giúp đỡ bạn!

View Results

Loading ... Loading ...

Danh sách sàn giao dịch uy tín

1/5 - (1 bình chọn)
Sàn Exnesss

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button
Bản đồ
Facebook Messenger
Chat với chúng tôi qua Zalo
Gọi ngay